Danh ngôn

Trong mọi cộng đồng, chúng ta cần một nhóm thiên thần gây rối.

We need, in every community, a group of angelic troublemakers.

(Bayard Rustin – trích bài phát biểu tại New York City 1963)

Trong mọi trường hợp, chắc chắn rằng sự thiếu hiểu biết, đi kèm với quyền lực, là kẻ thù tàn bạo nhất có thể có của công lý.

It is certain, in any case, that ignorance, allied with power, is the most ferocious enemy justice can have.

(James Baldwin - No Name in the Street 1972)

Các cuộc cách mạng và các cá nhân có thể bị giết hại, nhưng bạn không thể giết chết các ý tưởng.

While revolutionaries and individuals can be murdered, you cannot kill ideas.

(Thomas Sankara, một tuần trước khi bị ám sát, 1987)

Không có cảm giác nào cô đơn hơn việc bị chính đất nước mình trục xuất.

There's not a more lonely feeling than to be banished by my own country.

(Kiyo Sato – Kiyo’s Story 2009)

Ban Biên tập

Địa chỉ liên lạc:

1. Thơ

tho.vanviet.vd@gmail.com

2. Văn

vanviet.van14@gmail.com

3. Nghiên cứu Phê Bình

vanviet.ncpb@gmail.com

4. Vấn đề hôm nay

vanviet.vdhn1@gmail.com

5. Thư bạn đọc

vanviet.tbd14@gmail.com

6. Tư liệu

vanviet.tulieu@gmail.com

7. Văn học Miền Nam 54-75

vanhocmiennam5475@gmail.com

Tra cứu theo tên tác giả

Thứ Năm, 8 tháng 12, 2016

Minh triết phương Tây (kỳ 16)

Bertrand Rusell

Nam Dao Nguyễn Mạnh Hùng chuyển ngữ

Trong hậu bán thế kỷ 16, nước Pháp bị giằng xé trong cuộc chiến tranh tôn giáo giữa Công giáo và những tín đồ Tin Lành (Huguenots). Cũng như ở Đức, lý do của cuộc chiến không chỉ vì tôn giáo mà còn kinh tế. Cả hai mặt này cho thấy dấu hiệu thay đổi trong những bước chuyển tiếp từ thời Trung Cổ sang thời hiện đại. Tôn giáo Cải Cách và Thanh giáo đi đôi với sự phát triển của ngoại thương. Ở Pháp, sự cách ly tôn giáo có một thời tuân theo chỉ dụ khoan dung ký ở Nante năm 1598. Khi chỉ dụ này bị bãi năm 1685, nhiều tín đồ Huguenots rời Pháp sang sinh sống ở bên Anh và Đức.

Vì Tin Lành không là một tôn giáo phổ quát nên cần được bảo vệ về mặt chính trị, và do đó người lãnh đạo quốc gia trở thành lãnh đạo Giáo hội. Không như Giáo hội Roman, những giáo sĩ Tin Lành dẫu cũng hẹp hòi khắc nghiệt nhưng không có đủ quyền lực để lộng hành. Cuối cùng, người ta thấy cuộc giáo tranh là phí phạm và không thể đi đến một kết cục thắng bại nào cho bên này hay bên kia. Chính vì nhận định như vậy mà rồi sự khoan dung tôn giáo phát triển.

Trong Giáo Hội Roman, giữa thế kỷ 16 cũng xuất hiện một phong trào cải cách. Đó là dòng Tên (Jesuit), do Ignatius Loyola (1491-1556) thành lập và được công nhận chính thức vào 1540. Dòng này tổ chức theo nguyên tắc nhà binh được đề khởi bởi Loyola, một cựu chiến binh. Về giáo lý, dòng Tên đối nghịch với rao giảng của Augustin mà tín hữu Tin Lành chấp thủ, và đặt trọng tâm lên ý chí tự do. Trong thực hành, dòng tổ chức truyền giáo, giáo dục và giải ảo những mê tín dị giáo. Dòng này sau trở thành cơ chế tổ chức chính của tòa dị giáo Tây Ban Nha.

Khi phong trào Nhân Bản ở miền bắc dẫn tới những quan niệm mới trong Ki-tô giáo, phong trào ở Ý lại không quan tâm chi nhiều đến tín điều. Thời đó, cũng như bây giờ, Công giáo chiếm một phần của đời sống thường nhật và không luôn tác động lên ý thức con người. Trong một chừng mực, tôn giáo chỉ là phần nhỏ so với những điều khác. Ngoài ra, vì Rome là trung tâm quyền lực, Công giáo Roman không thể gây phiền hà cho tinh thần quốc gia người Ý. Đây chẳng qua là một hình thức lưu lại của niềm tin quốc gia đã hiện hữu từ thời hoàng kim xa xưa. Ảnh hưởng đáng kể này trong phương cách quản trị Giáo hội Roman còn tồn tại cho đến ngày nay.

Thời Phục Hưng, chúng ta thấy, quan tâm về Toán được đưa lên hàng đầu. Thứ đến là là sự quan trọng của phương pháp luận, như với Bacon và Hobbes. Hai ảnh hưởng này được tổng hợp trong hệ thống triết học của René Decartes (1596-1650) theo phong cách cổ điển, và vị này quả xứng đáng được coi như người đặt nền móng cho triết học hiện đại.

Gia đình Descartes thuộc đẳng cấp quí phái hạng thấp, cha ông là Cố vấn cho Quốc hội Brittany. Từ 1604 đến 1612, ông học ở Trường dòng Tên La Flèche, và ngoài kiến thức cổ điển, ông được đào tạo về Toán học khá đầy đủ thời đó. Sau, ông đi Paris, rồi học Luật ở Poitier và ra trường năm 1616. Nhưng ông có những quan tâm khác, sang Hòa Lan và gia nhập quân đội năm 1618, dùng thời gian rảnh rỗi để tiếp tục học Toán. Năm 1618, cuộc Đại chiến 30 năm[1] bắt đầu, Descartes vào quân đội Bavarian với ý định đi cho biết thế giới. Mùa đông năm đó, ông tìm ra nguyên tắc định hướng cho quan điểm triết học của ông. Kinh nghiệm này được kể lại trong “Diễn Ngôn về Phương Pháp”. Một hôm trời lạnh hơn lệ thường, Descartes ngồi cạnh lò sưởi trong một căn nhà, và khi người đã ấm lên ông bắt đầu suy tư, đến cuối ngày thì toàn bộ những nét chính của triết học theo ông đã được soi rọi. Descartes tại ngũ cho đến năm 1622 thì trở về Paris. Năm sau, ông thăm Ý và ở đó 2 năm liền. Về Pháp, ông cảm thấy đời sống có quá nhiều chuyện mất thời giờ, và muốn làm việc mà không bị quấy rầy, ông bỏ sang Hòa Lan năm 1628. Bán toàn bộ một gia sản nhỏ, ông có phương tiện sống độc lập, và khá thanh thản. Ngoại trừ 3 lần trở lại Paris, Descartes sống 21 năm ở Hòa Lan, khai triển từng bước nền triết học ông đã sơ họa từ thời phát kiến ra Phương pháp. Nghe chuyện tuyên án kết tội Galileo năm 1633, ông giữ lại không xuất bản một nghiên cứu vật lý quan trọng theo lý thuyết Copernic, không muốn dây dưa với những tranh cãi theo ông chỉ phí thời gian. Bề ngoài, ông là một người công giáo thuần thành, nhưng thực ra ông thế nào trên mặt học thuyết thì không biết được. Descartes dự trù xuất bản một toàn tập gồm Khúc xạ, Khí tượng và Hình học. “Diễn ngôn” in năm 1637 là phần nói đầu của ba luận án nói trên, trong đó tập Hình học nổi tiếng vì nguyên tắc Hình học Giải tích lần đầu được đề xuất và áp dụng.

clip_image002[1]

Descarteshttp://en.wikipedia.org/wiki/Descartes - cite_note-0

Năm 1641, Descartes in cuốn “Tư duy”, và năm 1644 cuốn “Nguyên tắc Triết học” đề tặng Công chúa Elizabeth. Năm 1649, ông lại viết tặng cho vị Công chúa này một trước tác về sự đam mê của tâm hồn. Cũng năm đó, Nữ hoàng Christina ở Thụy Điển quan tâm đến công trình của Descartes và mời ông đến Stockholm. Vị nữ hoàng này đầy cá tính thời Phục Hưng, mạnh khoẻ, ý chí sắt đá, và yêu cầu Descartes dậy bà mỗi ngày vào 5 giờ sáng. Giờ giấc này hẳn không phù hợp với triết học, nhất là trong những mùa đông hàn Bắc Âu, khiến triết gia của chúng ta khó kham. Ông bịnh, rồi chết vào tháng hai năm 1650.

Phương pháp của Descartes là kết quả tối yếu những quan tâm của ông về Toán học. Trong phạm trù Hình học, ông chứng tỏ phương pháp có thể dẫn đến những hệ quả sâu xa. Với phép Giải tích, có thể biểu hiện tính chất của cả một tập hợp những đường cong bằng những phương trình đơn giản. Descartes tin rằng phương pháp này áp dụng thành công trong Toán có thể được xử dụng trong những phạm trù khác và cho phép chúng ta đạt đến những xác minh tương tự như trong Toán học. “Diễn Ngôn” nhằm chỉ ra những giả định ta phải theo để dùng đúng cách khả năng lý luận. Có người xử dụng nhuần nhuyễn, người thì không, nhưng phương pháp của ông có thể tiếp thu qua thực hành. Descartes cho là thế nên ông không áp đặt mà chỉ trình bày ông đã làm thế nào để đạt đến những kết quả ông thu hoạch. Cách ông viết là kiểu tự sự, kể lể những lần ông không hài lòng với những điều mù mờ nửa vời trong nhiều lĩnh vực. Về Triết học, ông cho rằng chẳng có cách nhìn nào là thái quá, và trong Toán học, ông rất khâm phục những xác quyết đến từ diễn dịch, nhưng ông không biết những sự thật này có thể dùng để làm gì. Bỏ sách vở, ông ngao du và nhận thấy phong tục khác biệt từ nơi này qua nơi khác không khác gì những quan điểm triết lý của những triết gia. Cuối cùng, ông quyết định rằng chính ông phải tự mình tìm ra chân lý.

Ghi nhận rằng chỉ một công trình hoàn toàn thành tựu bởi một tác gia mới đáng hài lòng, Descartes phủ nhận tất cả những gì đã từng được viết và giảng dạy để bắt đầu minh định lại toàn bộ sự thật. Chỉ Lôgíc, Hình học và Đại số học là còn lại sau phủ nhận bác bỏ hàng loạt này, và từ đó Descartes suy ra bốn lề luật. Thứ nhất, chỉ chấp nhận những tư tưởng một khi chúng minh bạch và khúc chiết. Thứ nhì, chúng ta phải phân mảnh một vấn đề ra nhiều phần theo yêu cầu của cách giải đáp. Thứ ba, tư duy theo một quá trình từ đơn giản đến đa phức, và khi không có một trật tự tự nhiên như vậy thì ta phải sáng tạo và giả định ra nó. Thứ tư, ta phải kiểm tra từng công đoạn tư duy để không thiếu xót gì. Đây là phương pháp Descartes dùng khi ông áp dụng Đại số vào Hình học, tạo ra môn ngày nay có tên gọi là Hình học Giải tích như đã nói. Về áp dụng trong Triết học, Descartes nghĩ rằng ông phải hoãn lại để đợi cho đến khi tư tưởng mình chín muồi. Đối với Đạo đức học, chúng ta có thêm vấn đề. Đây là phạm trù cuối cùng của chuỗi xếp loại những khoa học, nhưng trong đời sống chúng ta thì đó lại là những tiêu chuẩn cần ngay trong những quyết định tức thời. Descartes đành lấy một số tiêu chí thực dụng cho phép ông sống thoải mái nhất. Ông tuân thủ luật pháp và phong tục nơi ông sống; tin tưởng vào tôn giáo; hành xử đúng chuẩn mực với quyết đoán và kiên trì một khi đã hành động; cuối cùng sống theo lý tưởng chứ không để tiền tài cám dụ, và giao hòa sự mong muốn của ông với luật lệ xã hội chứ không đòi hỏi điều ngược lại. Từ những tiêu chí và chuẩn mực vừa nói, Descartes an tâm buông đời mình vào nghiên cứu triết học.

Trong Siêu hình học, phương pháp của ông dẫn đến những hoài nghi có hệ thống. Sự hiển nhiên của cảm quan (sense) là bất xác ở nghĩa không đáng tin cậy (uncertain) và phải được thẩm tra. Ngay Toán học, dẫu rằng ít hơn, ta cũng nên ngờ vực vì Thượng Đế có thể đưa ta vào con đường của sai lạc. Người hồ nghi cuối cùng phải hồ nghi ngay chính sự hồ nghi của mình, điều này đặt nền tảng cơ bản cho công thức Descartes: “Tôi tư duy, vì thế tôi hiện tồn”. Đây là điểm khởi đi của Siêu hình học Descartes, rất khác biệt và rõ rệt: Con người (tôi) tư duy, biệt lập với những vật thể tự nhiên, và như vậy, ngay với chính thân xác mình. Từ khởi điểm này, Descartes thảo luận sự tồn tại của Thượng Đế với những luận chứng Bản thể luận. Vì Thượng Đế chân tín, Người không thể không cho con người chúng ta những ý thể khả biệt (distinct) và minh bạch (clear). Bởi chúng ta có những ý thể đó về thân xác - hay như Descartes gọi, về sự nối dài - chúng tất hiện tồn. Kế tiếp, ông phác họa 3 luận án chưa được xuất bản. Mọi sự đều được giải thích qua thân xác và chuyển động. Áp dụng trong Sinh học, Descartes đề xuất rằng có sự luân lưu của máu vì trái tim là nơi làm máu đi qua nóng lên khiến thể tích tăng. Điểm này khác quan sát của Harvey, gây ra một cuộc tranh cãi náo hoạt giữa hai người. Quay về “Diễn ngôn”, lý thuyết nặng tính cơ học máy móc này đưa đến nhận định rằng loài vật là những thiết bị tự động, không linh hồn, hệ quả đến từ sự kiện chúng không có ngôn ngữ và vì thế không có khả năng lý luận. Quan điểm này củng cố thêm một mức đề xuất linh hồn con người biệt lập với thân xác, và là vì ở trong môi trường không hiện diện bất cứ một lực hủy hoại nào, linh hồn ắt bất tử. Cuối cùng, Descartes so đo lợi hại của chuyện xuất bản hay không những trước tác của mình, gợi ra chuyện Galileo bị Giáo Hội kết án. Ông cho in “Diễn ngôn” như lời khai mở cho 3 trước tác nói trên, sau được coi như sơ thảo những nguyên tắc của Triết lý Descartes (Cartesian Philosophy).

Điều tối yếu trong Triết lý này là phương pháp hoài nghi phê phán (critical doubt), thế cách đưa đến sự hoài nghi phổ quát như với lập luận của Hume trước đây. Nhưng với quan niệm những ý thể khả biệt và minh bạch, Descartes không sa vào những kết luận thuần tiêu cực. Khả năng tư duy bẩm sinh là tri thức xác thực có phẩm chất cơ bản. Màu sắc, mùi vị, xúc giác… thể hiện cảm quan đều là những phẩm chất thứ yếu. Trong trước tác “Suy tư” (Meditation), Descartes diễn tả điều này qua hình ảnh một hình thể làm bằng sáp chảy ra khi gặp nóng. Cái bất biến, là sự nối dài thân xác, một ý thể bẩm sinh nhận thức được với trí tuệ.

Triết lý Descartes nhấn mạng tư tưởng như khởi điểm đã ảnh hưởng đến toàn bộ triết lý phương Tây, qua cả trường phái Duy Lý (rationalist) lẫn trường phái Duy Nghiệm (empiricist). Điều này đúng, mặc dầu công thức “Tôi tư duy, vì thế tôi hiện tồn” tự thân không thật đủ. Phát biểu này có nghĩa chỉ khi chúng ta chấp nhận rằng tư duy là một quá trình tự-ý thức được (self-conscious process). Nếu không thế, chúng ta có thể bảo “Tôi đi, vì thế tôi hiện tồn”, vì nếu tôi đi thì tất đúng rằng tôi phải hiện tồn. Phản biện này do Hobbes và Gassendi nêu lên. Nhưng, dĩ nhiên, tôi có thể nghĩ tôi đi mà thực thì tôi không đi, trong khi tôi không thể nghĩ rằng tôi nghĩ mà thực thì tôi không nghĩ. Chính tính tự-tham chiếu (self-reference) trong quá trình tư duy đả khiến công thức của Descartes có cơ sở. Bỏ qua tính cách tự-ý thức (self-concious) như với Hume sau này, công thức có thể sai. Tuy nhiên, kinh nghiệm (tôi) tư duy của bản thân mang lại những xác quyết ta khó có thể chia sẻ với tha nhân được như với những sự kiện khác.

Tương phản quan điểm nhị nguyên giữa trí tuệ và vật thể, Triết học Descartes đặt lại vấn đề về liên quan giữa trí tuệ với thân xác. Chúng vận hành theo nguyên tắc tự hàm (self-contained) của chúng. Đặc biệt, không thể cho rằng vận hành của trí tuệ, như lòng mong muốn chẳng hạn, lại có thể tác động lên thế giới vật thể. Ở điểm này, Descartes làm một ngoại lệ, chấp nhận linh hồn có thể thay đổi chiều hướng vận hành của trí tuệ, tức tác động trên phẩm tính chứ không trên lượng chất. Lối thoát giả tạo này tách khỏi hệ thống và không hoàn toàn tương thích với những qui luật vận hành. Những người kế thừa triết lý Descartes bác bỏ điều vừa nói, cho rằng trí năng không thể khiến thân xác chuyển động. Geulincx (1624-1669) và Malebranche (1638-1715) đề xuất lý thuyết phụ động, theo đó trong thế giới vật thể những chuyển động tạo ra tức thời những chuyển động tương ứng trong não bộ mà không cần qua một liên kết trực tiếp nào. Thượng Đế ra lệnh cho Vũ Trụ rằng vật thể và trí năng phải vận hành song song, vận hành này đúng lúc khớp với vận hành kia. Geulinx biểu hiện điều này bằng thí dụ ta có hai cái đồng hồ chỉ cùng giờ giấc, mắt ta nhìn một cái, tai ta nghe một cái, và đến giờ chuông điểm ta có thể tưởng rằng một cái đồng hồ tạo ra tiếng chuông cho cái kia. Trí tuệ và thân xác cũng như hai cái đồng hồ được Thượng Đế vặn dây cót và chạy song song với nhau, không cái nào tạo được chuyển động của cái kia. Nhưng lý thuyết này không phải không có khó khăn. Chẳng hạn, để có giờ giấc chúng ta chỉ cần một cái đồng hồ, nên chúng ta rất có thể suy ra những sự kiện từ trí tuệ qua tham chiếu với những sự kiện trong vận hành của vật thể.

Khả năng thành công chuyện vừa nói được đảm bảo bằng ngay chính nguyên tắc phụ động. Chúng ta có thể suy hẳn ta một lý thuyết về tinh thần dựa trên những sự kiện vật lý, điều những triết gia Duy Vật thế kỷ 18 đề xuất, và những nhà Tâm lý học dựa trên cơ sở hành vi (Behaviorist Psychology) nhấn mạnh ở thế kỷ 20. Vì vậy, chẳng những không tách được linh hồn khỏi thân xác, lý thuyết phụ động khiến một trong hai, hoặc linh hồn hặc thân xác, là thừa. Điều này đồng thuận với nguyên tắc Ki-tô giáo, và thật chẳng có gì ngạc nhiên khi triết học Descartes nằm trong thư mục của Giáo Hội. Triết học này không có khả năng hòa nhập với phẩm tính của lựa chọn tự do (free will). Với tính tất định khá cứng ngắc của nó đối với thế giới vật chất về cả sinh học lẫn vật lý, nó đã khuếch trương chủ nghĩa Duy Vật ở thế kỷ 18 và 19, nhất là khi lại được cộng hưởng với Vật lý học Newton.

Nhị nguyên trong Triết học Descartes cuối cùng trở thành qui ước tiếp cận vấn đề thực thể (substance) trong ý nghĩa phái Kinh Viện từng nêu lên. Một thực thể chuyên chở những phẩm tính thường hằng và độc lập. Descartes cho rằng trí tuệ và vật thể là hai thực thể, không tương tác, và hoàn toàn tự chủ. Lý thuyết phụ động được đưa ra để hoàn chỉnh, nhưng thật rõ rệt, chúng ta chấp nhận nguyên tắc phụ động thì chẳng có lý do gì mà không coi mỗi một trí tuệ như một thực thể cá biệt. Theo lý thuyết đơn tử (monads) [2], Leibniz khai triển vô số chủ thể, tất cả độc lập nhưng có phối hợp với nhau. Cũng tương tự, chúng ta có thể quay về thế cách của Parmenide và cho rằng chỉ có một thực thể. Đề xuất một lý thuyết nhất nguyên (monism) nhất quán là thế cách sau được Spinoza hồi phục.

Spinoza (1632-1677) sinh trong một gia đình Do Thái phải rời Bồ Đào Nha di qua Amtersdam, một nơi cho phép họ có thể tôn vinh Thượng Đế theo truyền thống của họ. Từ khi những người theo Hồi giáo bị trục xuất khỏi Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha, tòa Dị giáo đã thiết lập một thể chế tôn giáo không khoan nhượng khiến cuộc sống những kẻ không theo Ki-tô giáo rất khó khăn. Nước Hoà Lan theo Cải Cách lâm chiến với Tây Ban Nha, trở thành đất tị nạn cho những người bị khủng bố, là nơi qui tụ một cộng đồng Do Thái đáng kể. Trong tình huống này, Spinoza được giáo dục từ thời thơ ấu ở đó.

clip_image004[1]

Spinoza

Nhưng giáo dục truyền thống không đủ đáp ứng khả năng trí tuệ nhanh nhậy của Spinoza. Ông học tiếng Latinh, tự mình tiếp cận với trước tác của những nhà tư tưởng khởi xướng sự phục sinh của học thuật và đề xuất nền khoa học và triết học tân thời. Ông thấy rất sớm là không thể bó mình trong giới hạn của Do Thái giáo chính thống, và vì thế cộng đồng Do Thái lấn cấn khó chịu. Bên ngoài, những nhà thần giáo Cải Cách cũng không mấy khoan nhượng, và những bác bỏ phản biện trong tôn giáo có thể đụng chạm đến không khí cởi mở thuần thoáng của Hòa Lan. Cuối cùng, Spinoza bị trục xuất khỏi giáo đường Do Thái với mọi tội danh được ghi trong sách Thánh.

Người vốn nhút nhát, ông lánh mình và chỉ sống trong vòng một số bạn hữu, kiếm ăn bằng nghề mài kính và bỏ hết thời gian vào công việc tư duy triết học. Mặc dầu ẩn dật, tiếng tăm của ông lan xa, và ông trao đổi thư tín với một số người có ảnh hưởng. Trong số này, Leibniz là kẻ có tầm quan trọng, và họ có gặp nhau ở Hague, nhưng Spinoza không chịu rời nơi ẩn cư. Năm 1673, ông được đề nghị thành Giáo sư triết học ở Heidelberg, nhưng lịch sự từ chối không nhận danh dự này. Lý do theo ông là “tôi nghĩ sẽ phải ngưng xúc tiến tư duy triết học nếu như tôi nhận giảng dạy cho những người trẻ tuổi. Tôi cũng không rõ trong giới hạn nào tôi có tự do giảng dạy và lại chẳng muốn làm bất cứ gì đụng chạm đến tôn giáo đương thời… Vậy xin hiểu là tôi chẳng phải muốn điều kiện vật chất cao hơn, mà từ chối chỉ vì tôi đánh giá cao sự bình ổn mà tôi đang có”.

Trước tác của Spinoza không đồ sộ nhưng những gì viết ra cho thấy một sự tập trung và một Lôgíc chặt chẽ ở mức chưa ai đạt đến. Quan niệm của ông về Thượng Đế và tôn giáo, như sự nghịch đạo, vượt xa thời đại chẳng những của ông mà còn đến hàng trăm năm sau. Trước tác thâm sâu “Đạo lý” (Ethics), một khối chất nổ, chỉ được xuất bản sau khi ông chết. Lý thuyết chính trị của ông có những tương đồng với Hobbes, và dẫu họ có thoả thuận trên nhiều phương diện xây dựng một xã hội lý tưởng, cách thức Spinoza đặt ra và giải quyết trên lý thuyết lại khác hẳn. Trong khi Hobbes xây dựng quan niệm theo cách thực nghiệm, Spinoza đến những kết luận qua suy diễn từ lý thuyết tổng quan về siêu hình của ông. Để tiếp thu những luận cứ này, chúng ta buộc phải coi toàn bộ công việc triết học của ông như một đại luận thuyết. Có lẽ vì lý do này mà trước tác của Spinoza không gây ấn tượng tức thì như những triết gia Duy Nghiệm, nhưng xin nhắc rằng những vấn đề được Spinoza mổ xẻ đều là những vấn đề có thực ở thời ông và vẫn còn tính thời sự cho ngày nay. Chẳng hạn, vai trò tự do là phần cốt tử trong điều hành của hệ thống chính trị thời đó chưa được coi là hệ trọng như vào thế kỷ 19 sau này.

Không như Hobbes, Spinoza là người tán thành và cổ vũ cho tự do tư tưởng. Trên cơ sở của Siêu hình học và Đạo lý học ông đề xuất, tự do tư tưởng là điều kiện để nhà nước có thể vận hành một cách hài hòa tốt đẹp. Trong “Luận thuyết Thần học-Chính trị” (Tractatus Theologico-Politicus). điều này được thảo luận rất kỹ càng. Cuốn sách này khá đặc biệt vì những đề án được tiếp cận gián tiếp qua cách phê phán Thánh kinh. Ở đây, Spinoza khởi đi từ Cựu Ước, hai thế kỷ sau công trình này được biết đến dưới tên Phê phán Cao cấp. Khảo sát những thí dụ lịch sử đầu nguồn này dẫn đến sự chứng minh rằng tự do tư tưởng là thiết yếu cho sự tồn tại của xã hội. Về vấn đề này, chúng ta trích dẫn Spinoza như kết luận: “Tôi cũng thú nhận rằng tự do như vậy có thể đôi lúc gây ra những phiền toái. Nhưng ai là kẻ đề xuất này nọ mà lại chẳng gặp phải khó khăn? Kẻ nào muốn cai quản tất cả bằng pháp luật gọi những phiền toái này là những bất toàn chứ không phủ định chúng. Điều gì không cấm thì cần phải được cho phép, dẫu rằng lúc này hay lúc khác tự do có thể dẫn đến một số thiệt hại nào đó”.

Spinoza cũng khác Hobbes ở điểm ông không coi nền dân chủ như cách sắp xếp thuần lý nhất cho xã hội. Một chính quyền hợp lý ban bố nghị quyết trong phạm vi mình có thẩm quyền và tránh xa những vấn đề liên quan đến kiến thức và lòng tin. Chính quyền này có thể hình thành khi xã hội có một tầng lớp có trách nhiệm chính trị và đặc tuyển từ cơ sở tư hữu. Con người trong xã hội sẽ có cơ may lớn nhất để kiện toàn khả năng trí tuệ mà, theo siêu hình học Spinoza, là cứu cánh phải đạt tới. Với một chính quyền tốt nhất, một cộng đồng có nhiều hoạt động thương mại tùy thuộc ít nhiều vào tự do giao thương là cộng đồng nhiều khả năng chấp nhận những lề luật phóng khoáng. Nước Hòa Lan nơi Spinoza sinh trưởng hẳn là một điển hình.

Theo niên biểu những trước tác của Spinoza được in, chúng ta quay sang tác phẩm “Đạo lý” mà lẽ ra là phải bắt đầu từ đó trong một tiến trình tự nhiên. Tên trước tác này không hoàn toàn đúng như nội dung. Trước tiên, chúng ta tiếp cận Siêu hình học trong đó có nhiều phát biểu uy lý của Spinoza về chương trình nghiên cứu thế giới tự nhiên với phương pháp khoa học. Điều này đã trở thành một trong những vấn đề của tri thức ở thế kỷ 17. Tiếp đến là thảo trình về trí tuệ và tâm thức (mind), về tâm lý liên quan đến lòng ước muốn, sự đam mê, và một lý thuyết đạo lý dựa trên những trình bày trước.

Toàn bộ công trình được viết ra theo thế cách của Euclid. Bắt đầu là những định nghĩa và một tập hợp những định đề, từ đó theo phép diễn dịch chúng ta rút tỉa những đề xuất, với lập luận chứng minh, hệ luận và giải thích. Cách thức diễn ngôn này trong triết học không thịnh hành thời đó, và cho những kẻ không bao giờ thấy gì tốt đẹp, hệ thống Spinoza chẳng qua chỉ là những bài tập lạ lùng. Thực ra, trước tác của Spinoza không đến độ thái quá như vậy, và nói cho đúng, đấy là một tác phẩm bực thày, ngắn gọn nhưng rất sáng suốt.

Phần đầu của trước tác thảo luận vấn đề Thượng Đế. Sáu định nghĩa được đưa ra, trong đó có định nghĩa của thực thể (substance), có định nghĩa Thượng Đế tương ứng với truyền thống xử dụng khái niệm này trong trường phái Kinh Viện. Về định đề, gồm có bảy, hiển nhiên nên không cần đưa ra biện minh. Với khởi điểm đó, chúng ta đơn thuần rút ra những hệ quả, hệt như với thế cách Euclid đã làm trong Hình học. Ngay từ định nghĩa của thực thể, khái niệm này tự nó đủ giải thích cho chính nó. Và hệ quả là thực thể phải vô cùng (infinite), nếu không, phải có một cái gì khác giới hạn nó lại. Ngoài ra, chỉ có một thực thể, đó là toàn bộ thế giới, và trùng hợp là một với Thượng Đế. Bởi vậy, Thượng Đế và vũ trụ, tức vạn vật, suy rộng cũng hệt nhau, là một. Đây là học thuyết phiếm thần (pantheist) nổi tiếng của Spinoza. Phải nhấn mạnh là ông không hề dùng bất cứ khái niệm huyền bí nào, và cách suy diễn hoàn toàn là một luận thuyết thuần Lôgíc dựa trên những định nghĩa và định đề được xử dụng nhuần nhuyễn. Có lẽ đây là một điển hình ngoại hạng cho phương cách cấu trúc có hệ thống trong lịch sử triết học phương Tây.

Đồng nhất Thượng Đế với thế giới tự nhiên là một phản cảm trầm trọng đối với những người theo con đường chính thống trong mọi tôn giáo thời Pinoza. Nhưng tình thật, đây chỉ đơn giản là một diễn dịch Lôgíc, và nếu ai đó cảm thấy niềm tin của mình bị xúc phạm thì điều đó đơn thuần có nghĩa là Lôgíc không tôn trọng niềm tin, thế thôi. Thượng Đế và Thực thể được định nghĩa theo thế cách truyển thống, kết luận của Spinoza là sự áp đặt của phương pháp thuần Lôgíc. Như hệ luận, chúng ta cũng có thể tự hỏi hay là có gì bất cập trong những định nghĩa nói trên. Phù hợp với lý thuyết, Spinoza coi trí tuệ của mọi con người là một phần của trí tuệ Thượng Đế. Ông chia sẻ với Descartes về sự khả biệt và tính minh bạch, phát biểu rằng “sai lạc là do thiếu nhận thức, tri giác không đủ, bị lẫn lộn và sự cắt xén của ý thể”. Một khi chúng ta có đầy đủ ý thể, chúng ta sẽ biết trật tự và cách thức liên kết mọi sự vật, cũng hệt như cách thức liên kết ý thể. Theo tự nhiên, trí tuệ nhận biết vạn vật không như tình cờ (contingency) mà là thiết yếu (necessity). Càng đạt đến tri thức này, con người càng gần Thượng Đế, có nghĩa là con người với toàn bộ thế giới tiến đến nhất thể. Trong ngôn ngữ cũa Spinoza, ông nói “trí tuệ tự nhiên cảm nhận vạn vật từ một thế cách phi thời gian”, điều đến từ sự nhận biết vạn vật là thiết yếu.

Ở phần 3 tác phẩm “Đạo Lý”, Spinoza đề xuất rằng con người không thể thực hiện được tầm nhìn trí tuệ của toàn vũ trụ vì bị đam mê ngăn chặn trong quá trình nhận thức. Tiềm lực đàng sau mọi hành động là lý do tự-tồn (self-preservation). Có thể cho rằng cách hành xử ích kỷ này đày đọa chúng ta, nhưng thật ra điều này sai vì khi một ai đó đi tìm ưu thế cho mình thì sớm muộn người này sẽ khát khao thành Một với Thượng Đế. Thể hiện điều này, con người có thể nhìn vạn vật là chủng loại vĩnh hằng (“sub specie aeternitatis”), với thế cách phi thời gian như ta đã nói.

Hai phần cuối trong tác phẩm của Spinoza là Đạo lý theo đúng nghĩa. Một người ở trạng thái nô lệ nếu như hắn bị điều kiện hóa bởi ảnh hưởng và động cơ ngoại lai. Điều này đúng cho mọi sinh thể hữu hạn. Nhưng khi con người thành Một với Thượng Đế, hắn không còn ở vị thế đó, bởi vũ trụ vạn sự tự nó là vô điều kiện. Như vậy, nếu như hoà nhập mỗi lúc một tăng lên với vũ trụ, con người ngày càng tự do, tức là độc lập, hay tự chủ, yếu tính của Thượng Đế. Trong thế cách ấy, chúng ta có thể giải phóng mình khỏi sự sợ hãi. Giống Socrates và Plato, Spinoza coi sự ngu muội là căn cơ của mọi tội ác, và tri thức - như hiểu biết vũ trụ - là điều kiện dẫn lộ cho những hành động khôn ngoan và toàn mãn. Nhưng không như Socrates, ông không quan tâm đến sự chết. “Một người tự do không nghĩ đến cái chết; minh triết của anh ta là tư duy trên sự sống chứ không phải trên cái chết”. Và tội ác là xấu xa, trong khi Thượng Đế - hay vạn vật tự nhiên - không hề thiếu bất cứ gì, toàn hảo trong thế giới khả hữu này, ắt hẳn không thể là tội ác. Trong thực tế, như một chủ thể hữu hạn, con người hành xử làm sao để tự tồn, như thế để hoà đồng với vũ trụ trong khả năng của mình.

Chúng ta vừa đề trình một sơ khảo về hệ thống của Spinoza, rất quan trọng trong tiến trình khoa học thế kỷ 17 qua luận giải tất định trên cùng một cơ sở cho mọi sự vật trong vũ trụ. Trong thực tế, hệ thống này là thiết kế cho mọi khai triển của một nền khoa học thống nhất. Điều này, dĩ nhiên, không thể coi là hoàn toàn hợp lẽ mà không cần đưa ra những dè dặt về mặt định phẩm. Cũng như vậy, trên phương diện Đạo Lý, không thể cho rằng xấu xa hoàn toàn là mặt tiêu cực. Mọi hành động ác độc bừa bãi là những vết nhơ thường trực cho cả thế giới. Có lẻ vì vậy mà Ki-tô giáo đưa ra lý thuyết về tội tổ tông. Câu trả đáp của Spinoza, có thể là tội ác chẳng thể nào lại bừa bãi đối với chủng loại vĩnh hằng, nhưng hẳn điều này quả là khó mà xác quyết. Tuy vậy, hệ thống của Spinoza là một tượng đài sừng sững trong triết học phương Tây. Mặc dầu với giọng điệu nghiêm ngặt như trong Cựu Ước, đây là một cố gắng phi thường trình bày thế giới một cách hiểu được như trong truyền thống tư duy Hy Lạp.


[1] Chiến tranh từ 1618 đến 1648 ở Trung Âu giữa hầu hết những quốc gia Âu, kéo 30 năm liên tục và gây những tàn phá đáng kể.

[2] Monad theo ngữ nghĩa Hy Lạp là một, nhưng trong trường phái Pythagoras thì monad chỉ thiêng liêng tiên thiên, hay là tổng thể của mọi thực thể, nguồn của Một bất khả phân chia.